Động học thôi miên được hiểu nôm na là một loại hình nghệ thuật có sự tác động của động học. Tuy vậy, khái niệm này không bao hàm đầy đủ và không nhấn mạnh vào yếu tố thôi miên. Mặc dù bao trùm lên khá nhiều loại hình nghệ thuật đa dạng, nghệ thuật điêu khắc là nhánh phát triển mạnh mẽ nhất của nghệ thuật động học thôi miên.
Vậy, nghệ thuật điêu khắc động học thôi miên xuất hiện từ khi nào? Đối với nhiều người, điều này có thể khá khó tin những bộ môn nghệ thuật này xuất hiện từ giai đoạn Ấn tượng với những gương mặt tiên phong như Monet và Degas, khi họ đã cố đưa chuyển động của nhân vật vào họa phẩm. Tuy nhiên, phải tới nửa đầu thế kỷ 20 thì những nghệ sĩ như Alexandre Calder mới bắt đầu đặt những nền móng đầu tiên cho điêu khắc động học.
Trái ngược với suy nghĩ của nhiều người rằng nghệ thuật động học thôi miên chỉ bao gồm những tác phẩm có sự chuyển động, trên thực tế, nghệ thuật động học thôi miên được chia làm hai phân nhánh chính. Vào thập niên 50, thuật ngữ "apparent movement" (chuyển động bề ngoài) được sử dụng bởi giới sử học nghệ thuật để chỉ những tác phẩm điêu khắc có thể chuyển động. Còn "Op Art" là thuật ngữ được chỉ những tác phẩm chuyển động nhờ ảo ảnh thôi miên.
Cả hai loại hình động học thôi miên trên đều phụ thuộc lớn vào yếu tố toán học. Sau thập niên 1960, nghệ thuật động học thôi miên phát triển mạnh mẽ và tiếp tục phá bỏ nhiều rào cản. Dù cho sử dụng điện hay yếu tố tự nhiên, từ gỗ hay đèn LED, nghệ thuật động học thôi miên vẫn luôn thách thức nghệ thuật truyền thống. Sau đây, hãy cùng tìm hiểu về quá trình phát triển của nghệ thuật động học thôi miên.
Naum Gabo. "Standing Wave."
Marcel Duchamp."Bicycle Wheel." (Ảnh: Gagosia)
Alexander Calder
Bridget Riley. "Blaze."
David Cerny. "K on Sun."
ART+COM. "Kinetic Rain."
Breaking Wave thuộc PLEBIAN DESIGN trên Vimeo
Jennifer Townley. "Asinas."
Ryan Kvande. "Flow."
Derek Hugger. "Colibri."
Bình luận trên Designs.vn